I. NGÀY N GIỜ G
Sau đợt Tổng công kích của quân đội Bắc Việt vào toàn cõi miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân 1968, dưới áp lực của quần chúng Hoa Kỳ do những thành phần phản chiến xách động, ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Johnson tuyên bố ngưng oanh tạc miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, đồng thời cử đại diện liên lạc với chính phủ Bắc Việt để mở cuộc hòa đàm. Ngày 13 tháng 5 năm 1968, Hội Nghị Paris giữa hai bên khai mạc, nhưng phải đến ngày 18 tháng 1 năm 1969 mới chính thức đi vào thỏa thuận cụ thể; tuy nhiên, do những quan điểm dị biệt và không chịu nhượng bộ nhau, cuộc hòa đàm nhiều lần bị bế tắc, mặc dầu vẫn có những tiếp xúc bí mật. Đến cuối năm 1971, do những chuyển biến ngoại giao quốc tế, kết hợp với những cuộc oanh kích nặng nề của Không quân Hoa Kỳ trên miền Bắc. Chính phủ Bắc Việt chấp nhận mở lại cuộc hòa đàm.
Để hậu thuẫn cho cuộc thương thuyết này, Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản đã ra nghị quyết mở cuộc tấn công đồng loạt trên toàn lãnh thổ miền Nam VN mà ý định ban đầu lấy miền Đông Nam Bộ làm điểm, để nếu có thời cơ thuận lợi sẽ tấn công uy hiếp Sài Gòn, tạo áp lực trên bàn hội nghị, nhưng sau khi cân nhắc thấy còn nhiều điểm yếu chưa hoàn thiện. Bộ Chính trị quyết định chuyển hướng tấn công, lấy Trị Thiên làm điểm với một cố gắng cao nhất để chiếm được 2 tỉnh này bởi ở đây dễ tập trung lực lượng, chỉ đạo và bảo đảm vật chất cho một chiến dịch quy mô lớn.
Do tính chất quan trọng của trận chiến, Quân ủy Trung ương quân đội Bắc Việt đã cho thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị Thiên do tướng Lê Trọng Tấn phó tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, tướng Lê Quang Đạo, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy, các tướng Cao văn Khánh, Giáp văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lưỡng Nhân, Anh Đệ làm phó Tư Lệnh, Bí thư đảng ủy Quảng Trị Hồ Sĩ Thản cũng được tham gia đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng được cử làm đại diện của quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng tấn công chiến lược quan trọng này.
Ngày 11 tháng 3 năm 1972 BCT thông qua nghị quyết của Quân Ủy Trung ương. Ngày 15 tháng 3 năm 1972 tại Bãi Hà (Tây Vĩnh Linh), tướng Tấn đã họp Bộ Chỉ Huy chiến dịch để đánh giá tình hình hai phía trong khu vực, đồng thời phổ biến nhiệm vụ và phân công cụ thể . Ngày mở cuộc tấn công là 4g30 chiều 30-3-1972.
Sáng ngày 30 tháng 3 năm 72 Bộ Tư lệnh
chiến dịch họp lần cuối để khai triển kế hoạch Trưởng phòng Quân Báo của mặt trận
báo cáo Trung đoàn 56 đang trên đường đến thay quân ở Fuller . Tướng Tấn nhận định
như vậy kế hoạch chưa bại lộ nên đã cho giờ nổ súng sớm hơn, tức 11 giờ 30. Tuy
vậy, lúc 10g30 khi TĐ2/56 của Thiếu tá Võ văn Đạt trên đường đến căn cứ Fuller
để thay quân cho TĐ1/2 của Thiếu tá Trương Thanh Hưng đã lọt vào ổ phục kích của
TĐ 3/27/SD308, Tiểu đoàn trưởng đã ra lệnh nổ súng (sớm hơn kế hoạch 1 giờ). Đến
11giờ30 khi giờ G khởi điểm. Sau khẩu lệnh "Bão Táp" của tướng Tấn,
hàng trăm khẩu pháo 130 ly, HT.122 đồng loạt nã đạn vào 14 căn cứ phòng thủ của
Sư đoàn 3 và Thủy quân lục chiến. Cùng lúc các đơn vị của Sư đoàn 308 vượt sông
Bến Hải tấn công tràn ngập các căn cứ của Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2 tại Gio
Linh, đồng thời Sư đoàn 304 ồ ạt chiếm lĩnh điểm đóng quân của các Tiểu đoàn
thuộc Lữ đoàn 147 ở phía Tây, căn cứ Khe Gió do Tiểu đoàn 3/56 trấn
giữ và một bộ phận của Trung đoàn 27 Sư đoàn 308 chiếm căn cứ Fuller. Tiếp đó,
tập trung pháo cường tập vào hai căn cứ Carroll, bản doanh của Bộ Chỉ huy Trung
đoàn 56 và căn cứ Mai Lộc, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 147 TQLC.
Ngày 2 tháng 4 năm 1972, Trung tá Phạm
Văn Đính, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 do nhiều yếu tố tác động đã liên lạc
với quân Bắc Việt xin đầu hàng, đêm đó căn cứ Mai Lộc cũng phải di tản.
II.
QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH CĂN CỨ TÂN LÂM
Sau
sự kiện vịnh Bắc bộ vào ngày 5 tháng 8 năm 1964 khi hai khu trục hạm Maddox và
Tunnee bị tấn công, Tổng thống Hoa kỳ Johnson tức khắc ra lệnh trả đũa, đồng thời
xin phép Quốc hội đổ quân vào Việt Nam.
Ngày
8 tháng 2 năm 1965, hai đại đội Thủy quân lục chiến tinh nhuệ đầu tiên của quân
đội Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng, kể từ đó khai triển quân ồ ạt trên các khu vực trọng
yếu để bảo vệ miền Nam Việt Nam.
Vào
đầu năm 1966, có chỉ dấu cho thấy các Sư đoàn chủ lực Bắc Việt bắt đầu xâm nhập
vào vùng phi quân sự từ hai hướng Bắc và Tây Bắc, đã cho những đơn vị tiền tiêu
áp sát lực lượng TQLC/ Hoa kỳ.
Đến
trung tuần tháng 7, quân đội Hoa kỳ cho mở cuộc hành quân Hastings gồm 5 Tiểu
đoàn Bộ binh và 1 Tiểu đoàn pháo tiến vào các khu vực phía Tây và Tây Bắc Cam Lộ,
dọc theo Quốc Lộ 9. Cuộc tiến quân gặp sự kháng cự của Cộng quân đang cố bảo vệ
hành lang xâm nhập. Một vị trí pháo binh đã được thiết lập trên đồi 241.
Sau cuộc hành quân Hastings, mặc dầu bị thiệt hại nặng, nhưng quân đội Bắc Việt đã tăng quân và chiếm giữ nhiều cao điểm ở phía Bắc Quốc lộ 9.
Cuối
tháng 9 năm 1966, TQLC/Hoa Kỳ mở cuộc hành quân Prairie để giải tỏa những cứ điểm
này. Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 4 SD3/TQLC được lệnh tấn công vào hai ngọn đồi
400 và 484, sau khi chiếm xong đồi 400, Đại đội Kilo của Đại úy James J.
Carroll củng cố hệ thống phòng thủ và yểm trợ cho Đại đội M đang tiến lên đỉnh
đồi 484, địa thế ngọn đồi này hiểm trở, dốc ngược. Máy bay và pháo binh yểm trợ
không hiệu quả, nên đã sử dụng xe tăng để tác xạ thẳng vào sườn núi …Nhưng một
điều không may xảy ra: Vào lúc 10 giờ sáng ngày 5/10/1966 có 2 quả đạn đã lạc
vào đồi 400 làm cho 13 chiến sĩ tử thương trong đó có Đại úy Carroll.
Đồi 241 đã được thiết lập trước đó như là một vị trí pháo binh, sau này phát triển thành một căn cứ hỏa lực, đặt bản doanh của một Trung đoàn, lấy ngày sinh nhật của TQLC Hoa Kỳ làm ngày khai sinh và lấy tên của Đại úy Carroll đặt cho tên của căn cứ: Cụ thể Camp James J. Carroll được thành lập vào ngày 10 tháng 11 năm 1966 (Đồi 241 - Căn cứ Carroll có tên trên bản đồ là Động Tranh, khi QL/VNCH nhận bàn giao, đổi thành Căn Cứ Tân Lâm)
Trong cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, Carroll là Bộ chỉ huy Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 3 TQLC/ Hoa Kỳ và là một căn cứ hỏa lực mạnh nhất tại khu vực này, nơi đóng quân của 4 Tiểu đoàn Pháo Binh (2 TĐ của Trung đoàn 12 PB/TQLC và 2 TĐ của Liên đoàn 94 Pháo Binh Lục Quân). Từ đây đại bác 175 ly và đại bác nòng 8 inches bắn yểm trợ cho các đơn vị trong một vòng cung từ Khe Sanh đến Cồn Tiên và thường xuyên đấu súng với pháo 130 ly của quân đội Bắc Việt bên kia sông Bến Hải. Căn cứ rộng đủ để chứa hơn 2000 quân với một vòng đai phòng thủ quy mô. Địa hình căn cứ rất lý tưởng để phòng ngự: Xây theo hình lục giác trên một ngọn đồi trống, quân trú phòng có thể quan sát 4 hướng và phát hiện địch quân từ cự ly 500 - 1000 mét.
Trong 3 năm trú đóng của quân đội Hoa Kỳ, trại Carroll chưa một lần bị tấn công bằng bộ binh, chỉ có những đợt pháo kích nhằm khống chế hỏa lực yểm trợ đặc biệt là vào tháng 3 năm 1967 khi quân đội Bắc Việt tập trung một lực lượng hùng hậu để tấn công Khe Sanh. Sau tổng công kích Tết Mậu Thân, áp lực địch trong khu vực giảm dần, chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, rút dần quân đội về nước. Tháng 7 năm 1969, căn cứ Carroll được chuyển lại cho QLVNCH, đơn vị nhận bàn giao là Trung đoàn 2 Sư đoàn 1 Bộ Binh.
Tình hình tương đối yên tĩnh cho đến cuối tháng 3 năm 1972, sau 3 ngày bị pháo liên tục với mức độ và cường độ ác liệt, Trung tá Trung đoàn trưởng TĐ56 đã có một cuộc họp để quyết định đầu hàng. Vào lúc 2g30, ngày 2/4/1972 Đại úy Nhơn Trưởng ban 2 nhận lệnh Trung tá Đính cầm cờ trắng ra trước cổng căn cứ như là dấu hiệu buông bỏ vũ khí của toàn Trung đoàn, cũng là thời điểm đánh dấu sự chấm dứt hoạt động của căn cứ hỏa lực Tân Lâm sau 5 năm, 4 tháng, 23 ngày thành lập với biết bao công sức và xương máu của các chiến sĩ Việt Mỹ quyết tâm gìn giữ
III.
QUÂN
ĐỘI BẮC VIỆT TẤN CÔNG
Khi quân đội Hoa Kỳ rút đi, khu vực tỉnh Quảng Trị chỉ có Trung đoàn 2/SĐ1BB và 1 Lữ đoàn TQLC dàn mỏng để phòng thủ. Sau hành quân Lam Sơn 719, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH quyết định thành lập tại đây một Sư đoàn Bộ Binh. Ngày 1 tháng 10 năm 1971 Sư đoàn 3 Bộ Binh ra đời, lấy Trung đoàn 2 SĐ1 làm lực lượng nòng cốt và 2 Trung đoàn Tân Lập 56 và 57. Lúc này các đơn vị thuộc Trung đoàn 2 chịu trách nhiệu khu vực Carroll, Khe Gió và Fuller. Trung đoàn 56 và 57 tại các căn cứ ở Tây Gio Linh cùng một số vùng đồng bằng.
“….. Sáng sớm ngày 30/ 3/1972 Tr.Ð 2 và 56 hoán chuyển trại
và vùng trách nhiệm. Tr.Ð 56 từ căn cứ C2 ở Bắc Cam Lộ di chuyển về hướng Nam,
thay thế Tr.Ð 2 ở căn cứ Carroll, căn cứ hỏa lực Fuller và Khe Gió. Mười một
giờ ba mươi, khi đoàn quân còn đang di chuyển, một số chưa kịp qua sông (sông
Cam Lộ, trên đầu đường 9), chỉ có một đại đội tác chiến và đại đội chỉ huy vừa
vào trong căn cứ Carroll thì địch quân tấn công. Pháo 130 ly của địch bắn tràn
ngập các mục tiêu. Không phải chỉ có Tr.Ð 2 và 56 bị tấn công, tất cả các căn
cứ trên toàn Quảng Trị bị tấn công. Ở hướng Bắc SÐ 308 CSBV chia làm bốn mũi
vượt qua vĩ tuyến 17 đánh thẳng vào Tr.Ð 57; ở hướng Tây từ biên giới Lào, SÐ
304 và một trung đoàn thiết giáp đánh vào các tiền đồn của lữ đoàn 147TQLC ở
Núi Ba Hô và Sarge. Ngày hôm đó, mặt trận Bắc và Tây Bắc Quảng Trị hoàn toàn
trong biển lửa: CSBV bắn 2,000 quả đạn chung quanh căn cứ Fuller, Khe Gió,
Carroll trong tổng số 11,000 trái trong 24 tiếng đầu của chiến dịch…”
Với cuộc hoán chuyển vị trí đang diễn ra
khi cộng sản tấn công, ba tiểu đoàn của Tr.Ð 56 chỉ có một phần bên trong những
căn cứ đã được chỉ định. Hai tiểu đoàn 1/56 và 2/56 vẫn còn kẹt giữa đường và
đang bị pháo của địch quân kèm lại một chỗ; tiểu đoàn 3/56 ở Khe Gió và 1/2 (tiểu
đoàn 1 của trung đoàn 2), chưa rời trại khi Cộng quân tấn công ở Fuller cũng
không di chuyển được vì bị pháo. Bộ binh CSBV tấn công hai căn cứ suốt ngày 30.
Trưa 31, Khe Gió và Fuller thất thủ. Lực lượng ở hai căn cứ này mở đường máu
rút về hướng đông nam, về căn cứ Carroll. Với hệ thống truyền tin bị phá hủy, Trung Tá
Đính gần như hoàn toàn bất lực trong việc điều động các cánh quân đang phân
tán. Không phải chỉ có trung đoàn 56 của Trung Tá Đính là nằm trong hoàn cảnh ngặt
nghèo: bên trái của căn cứ Carroll, ở hướng Tây và Tây Nam, hai căn cứ hỏa lực
Núi Ba Hô và Sarge (Động Toàn) - vòng đai bảo vệ của Carroll - sắp bị tràn ngập.
Mười giờ rưỡi đêm 31, tiểu đoàn 4 TQLC ở căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô di tản. Khi
Núi Ba Hô di tản thì căn cứ Sarge ở phía Nam cũng không thể giữ được. Bốn giờ
sáng đêm đó, sau khi khẳng định được tình hình ở hướng Bắc, bộ chỉ huy TÐ4 TQLC
ở Sarge cũng rút đi. Hai toán quân TQLC đều di tản về căn cứ Mai Lộc, ba cây số
hướng Nam căn cứ Carroll, nơi có bản doanh của lữ đoàn 147 TQLC. Bây giờ chỉ
còn Carroll và Mai Lộc nằm trên hướng tiến quân của SÐ 304 về Quảng Trị.
Ngày
31-3-1972 Trung Tá Ðính liên lạc với Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện.
“Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi.” Ông
Ðính báo cáo với Tướng Giai. “Ráng
chờ, sẽ có tiếp viện,” Tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1 tháng 4, Tướng Lãm đích
thân gọi Trung Tá Ðính. Tướng Lãm ra lệnh vắn tắt, là Sư Ðoàn 3BB và Quân Ðoàn
I không còn gì để tiếp viện. Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi
giá! Cùng ngày, những cánh quân di tản hay những cánh quân bị kẹt vì pháo kích
lần lượt về được bên trong căn cứ Carroll …..”
Tình hình càng lúc càng xấu làm cho
Trung tá Đính rất hoang mang.
"..... Sự bi quan trở thành thất vọng khi tin tức qua hệ thống truyền tin cho biết hai Trung đoàn 2 và 57 trên đường di tản về Ðông Hà và Bộ Chỉ Huy Sư Ðoàn 3BB sẽ rời căn cứ Ái Tử về Quảng Trị để tránh tầm đại bác 130 ly của Cộng quân từ bên kia sông Bến Hải bắn qua. Tối ngày 1 tháng 4, với tất cả quân di tản tụ về, căn cứ Carroll bây giờ có khoảng 1,500 tay súng trong vòng đai phòng thủ ..."
Sáng
mồng 2 - 4 -1972, Tr. Tá Đính gọi về BTL/SĐ xin yểm trợ nhưng không gặp Chuẩn tướng
Vũ văn Giai, căn cứ vẫn bị mưa pháo dồn dập, sau đó ông triệu tập cuộc họp Ban
Chỉ huy Trung đoàn và các đơn vị trưởng tăng phái gồm:
-
Trung tá Phạm văn Đính – Trung đoàn trưởng
-
Trung tá Vĩnh Phong – Trung đoàn phó
-
Thiếu tá Thuế – Pháo Binh, phụ tá hỏa lực
-
Thiếu tá Tôn Thất Mãn – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56
-
Đại úy Hoàng Quốc Thoại – Trưởng ban 3
-
Đại úy Nhơn – Trưởng ban 2
-
Đại úy Hoàng Trọng Bôi – Pháo đội trưởng 175
-
Đại úy Nguyễn văn Tâm – Pháo đội trưởng TĐ1/PB/TQLC.
-
Trung úy Lê Văn Kiểu – Pháo đội 105
-
Thiếu úy Thái Thanh Bình – Chi đội trưởng Thiết Giáp
……………
Sau
khi nêu tình hình nguy ngập của căn cứ sau 3 ngày bị pháo hủy diệt, mặc dầu chưa
có bộ binh địch tấn công, nhưng khả năng của đơn vị trú phòng không thể cầm cự
lâu dài, viện binh, không yểm không có, ông Đính đã trình với Tướng Giai và được
trả lời toàn quyền quyết định, tiếp đó ông đưa ra 3 hướng giải quyết để mọi người
lựa chọn:
1.
Tử thủ, chiến đấu đến giây phút cuối cùng
2.
Mở đường máu để rời khỏi căn cứ
3.
Đầu hàng
Bên
ngoài pháo địch bắn liên hồi, nhưng trong phòng họp im phăng phắc. Mọi người
đang chờ đợi một quyết định lịch sử, bỗng người ta nghe một giọng nói vang lên:
Chậm, rõ ràng nhưng cương quyết:
- Tôi chọn một trong 2 điều trước và bác bỏ điều thứ 3. Tôi không chấp nhận đầu hàng.
Mọi người cùng nhìn về phía phát ra tiếng nói ấy: Thiếu tá Tôn
Thất Mãn. Nhưng ý kiến của anh như tiếng vọng giữa sa mạc, chẳng ai quan tâm.
‘…..Trung Tá Ðính nói ra ý nghĩ thật
của mình là “Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị
thương, có chết, để có được một chiến thắng, thì cũng không ai lo cho chúng ta
sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân.
…..Trước
sự yên lặng của các sĩ quan, Trung Tá Ðính nói về gia đình của họ, về viễn ảnh
những vui mừng khi họ được sống sót trở về…..”
Cuộc họp chẳng qua chỉ là hình thức, bởi
vì trước đó Trung tá Đính đã liên lạc với cấp chỉ huy Trung đoàn 38 Pháo của Cộng
quân để xin đầu hàng.
“…..Sau cuộc họp, Trung tá Đính gặp cố vấn
của trung đoàn, Trung tá W. Camper và Thiếu tá J.Brown, vị sĩ quan Mỹ chất vấn Trung
tá Đính: Tại sao ta không sử dụng mấy chiếc M-41 còn lại và vài xe bọc sắt, phá
hàng rào phía Nam rút về phía căn cứ Mai Lộc nương tựa vào lực lượng Thủy quân
Lục chiến ở đó mà tìm về Ái Tử.
Trung tá Đính trả lời:
- Muộn rồi, các sĩ quan đã đồng ý đầu hàng ….. Ông hãy cùng tôi tự tử để khỏi
nhục.
- Không, sĩ quan Hoa Kỳ không làm như vậy, chúng tôi sẽ tự lo liệu lấy…. “ rồi
bỏ đi.
Sau đó Trung tá Đính ra lệnh Đại úy Nhơn
- Trưởng ban 2, cởi chiếc áo lót màu trắng ra treo trước cổng để làm tín hiệu
chấp nhận đầu hàng (chuyện cờ trắng như vừa trình bày là do Thiếu tá Mãn kể, nhưng
theo Thiếu tá Hà Thúc Mẫn được Đại úy Hoàng Quốc Thoại - Trưởng Ban 3 thuật lại
lúc cùng nhau ở trong tù thì Trung tá Đính lệnh cho Thượng sĩ Sừng xé tấm drap
trải giường làm đôi. Trong một bài tùy bút của Nguyễn Thắng - phóng viên chiến
trường Quân Đội BV cũng viết như thế: “Sau khi sai lính lấy tấm vải trắng trải
giường nằm, kéo lên cột cờ, anh Đính đã gọi cho chúng tôi: “Alô, Bông Lau đâu,
đã trông thấy cờ trắng chưa?”).
Làm đúng theo điều kiện của cấp chỉ huy
Trung đoàn 38, Pháo Bông Lau, mọi người đi theo hàng đôi ra hướng Quốc Lộ 9
theo thứ tự cấp bậc Tá - Úy - Hạ Sĩ Quan...
Xế trưa 2 - 4 - 1972, sau khi Trung tá Đính thông báo lệnh đầu hàng, ngoài Thiếu tá Tôn Thất Mãn, còn 2 sĩ quan khác chống lại (sau khi trở về đơn vị của mình), đó là Đại úy Nguyễn văn Tâm, Pháo đội trưởng B/TDD1/PB/TQLC và Thiếu úy Thái Thanh Bình, chi đội trưởng Thiết đoàn 11 Kỵ binh.
“..…Ðại úy Tâm về họp các sĩ quan, và hạ sĩ quan nòng cốt. Tất cả đồng ý không hàng. Anh Tâm bèn chia ra nhiều toán và chỉ thị sẽ tùy nghi chiến đấu tìm đường tẩu thoát. Anh ủy cho 1 sỹ quan người địa phương biết địa lý. Cố thoát về được để báo cáo cho Bộ chỉ huy TQLC. Tất cả anh em đều đồng ý không chịu kéo cờ hàng.
Sau cùng kết cục cũng không phải là trận đẫm máu như đã dự trù. Trong lúc các đơn vị bộ binh đầu hàng, địch ở ngay sau lưng thủy quân lục chiến nên hầu hết các sỹ quan pháo binh của pháo đội đều bị bắt làm tù binh. Trên 50% lính phá rào chạy thoát cùng với 1 sỹ quan đã được ông Tâm ủy nhiệm dẫn anh em chạy…..”“…..Lúc 15 giờ chiều, trung tâm hành
quân của Sư Ðoàn 3 BB ở căn cứ Ái Tử nhận được công điện của sĩ quan cố vấn
Trung Ðoàn 56 BB gửi đi từ căn cứ Carroll: Chúng tôi yêu cầu được rời nhiệm sở.
Có lý do: Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 56 BB không cần chúng tôi ở đây nữa. Sẽ cắt
nghĩa sau.
Nhận điện tín, do không hiểu chuyện gì
đã xảy ra, Ðại Tá Turley, cố vấn Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến đang làm việc
chung với toán cố vấn của Sư Ðoàn 3 BB, đã ra lệnh: Không được, các ông hãy ở
đó thi hành nhiệm vụ. Hai mươi phút sau một công điện cuối cùng nhận được từ
căn cứ Carroll: căn cứ muốn hàng địch. Cờ trắng kéo lên trong vài phút nữa.
Không còn thì giờ để nói, chúng tôi hành động gấp để vượt thoát.
Sau khi báo tin về trung tâm hành
quân Ái Tử, hai sĩ quan cố vấn của Trung Ðoàn 56 BB thu xếp hàng trang nhẹ vào
túi đeo vai, thiêu hủy tài liệu kín rồi xách chiếc máy truyền tin đi về hàng
rào phía Nam căn cứ. Hai người lính Việt Nam tình nguyện đi theo. Đang lúc len
lỏi giữa hàng rào kẽm gai thì bộ đội Bắc Việt đã phát giác và nổ súng. Toán
người định vượt thoát vừa bắn trả vừa lùi trở lại hàng rào. Một cố vấn dùng máy
PRC-25 liên lạc về Ái Tử xin tiếp cứu thì thật tình cờ, họ liên lạc được với
một chiếc trực thăng đang tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc.
Phi công đã liên lạc với toán cố vấn và đã đáp xuống căn cứ Carroll trong khi 2
trực thăng Cobra võ trang nhào xuống bắn phá phía ngoài vòng rào yểm trợ. Viên
sĩ quan cố vấn phó Trung Ðoàn 56 BB và hai người lính truyền tin leo lên trực
thăng trước, viên cố vấn trưởng còn đứng lại ngăn cản một số lính pháo binh
đang chạy lại gần với ý định đi theo. Kẻ nào không có súng là có ý định hàng
giặc. Ông ta nghĩ vậy và chỉ cho phép khoảng 30 người lính có vũ khí lên trực
thăng…”
Khi người cố vấn của Trung Ðoàn 56
BB ngồi vào chiếc ghế ở cửa thì trực thăng bốc lên giữa những hàng súng nhỏ bắn
theo. Nhìn lại căn cứ Carroll, ông ta đã thấy lá cờ trắng thật to được treo lên
ở cổng chính của căn cứ. Chiếc trực thăng CH-47 bị chảy dầu, nên khi bay về đến
Quốc Lộ 1 phải đáp xuống, thả toán người thoát về từ căn cứ Carroll giữa những
tiếng nổ của hỏa tiễn 122 ly. Hai sĩ quan cố vấn được một chiếc trực thăng bốc
về Quảng Trị.
Khi nghe tường trình sự việc xảy ra
tại căn cứ Carroll, tướng Giai không tin là chuyện có thật và giận dữ nói các
cố vấn là hèn nhát bỏ nhiệm sở. Chẳng những tướng Giai mà hầu hết mọi người đều
không tin rằng Trung Tá Phạm Văn Đính, người hùng Hắc Báo đã từng chiến thắng
khắp nơi trên vùng giới tuyến mà lại dễ dàng đầu hàng quân địch sau 3 ngày
chiến đấu. Nhưng đó là sự thật phủ phàng. Sau khi phối kiểm tin tức, các binh
sĩ thoát về đều nói như vậy, tướng Giai buồn rầu xin lỗi hai cố vấn và hai
người này được chỉ định đi theo Trung Ðoàn 2 Bộ binh.
Tại trung tâm hành quân ở căn cứ Ái Tử,
khi nhận được tin căn cứ Carroll thất thủ, Ðại Tá Turley điện thoại về Đà Nẵng.
Không ai tin. Cố vấn Quân Ðoàn 1 nói với ông: "Đại Tá Turley, ông có điên
không, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư Lệnh Quân Ðoàn 1) không biết có sự đầu
hàng nào cả.
"Xin chờ hai cố vấn Trung Ðoàn 56
BB vừa thoát về báo cáo tình hình rõ ràng hơn." Đại tá Turley nói vậy và
gác máy. Sau đó, ông được lệnh về Sài Gòn gấp để trình diện Ðại Tướng Abrams,
tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam….”
IV. ĐẦU HÀNG ... TẠI SAO?
Đó
là câu hỏi cho đến hôm nay chưa có câu trả lời! Vẫn là sự thảng thốt, ấm ức, nhức
nhối trong lòng những chiến binh SĐ3 ngày ấy - mỗi khi nhớ đến.
Những
ngày tháng đầu ở Sư đoàn, Trung tá Đính luôn tạo cho chúng tôi ấn tượng tốt đẹp
khi ông điều khiển chương trình đại lễ Thành lập Sư đoàn 3BB trong ngày
1-10-1971 tại căn cứ Ái Tử. Ông thật oai phong, vóc dáng cao lớn, giọng nói
dõng dạc trước hàng quân đang nghiêm chỉnh chào đón ngày trọng đại, linh thiêng
của đơn vị trước sự chứng kiến của đầy đủ tướng lãnh cao cấp chỉ huy quân lực.
Hơn thế trước đó quân dân Trị Thiên xem ông như là một ngôi sao trong chòm sao
lấp lánh của SĐ1 với những tên tuổi: Võ Toàn, Hoàng Mão, Lê Huấn, Trần Ngọc Huế
gắn liền với biết bao chiến công hiển hách!
Nhưng điều gì tác động để trong khoảnh
khắc ông xoay lưng lại với "Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm " mà hơn
một lần ông đã quỳ xuống đón nhận, gánh vác như một lời thề!? Cũng chỉ trước đó
một ngày, ông đã giao kết với Trung tá Nguyễn Năng Bảo - Lữ đoàn trưởng
LĐ147/TQLC tại Mai Lộc:"Tôi và anh cố gắng liên kết chống giữ mặt trận
phía Tây, nhưng nếu áp lực địch quá nặng, tôi sẽ di chuyển xuống phía Nam cùng
với anh".
Trước
hết chúng ta hãy nghe ông giải bày tâm sự sau hành quân Lam Sơn 719. Ông suy
nghĩ nhiều về cuộc chiến không tương lai và thân phận của những quân nhân. Cảm
nghĩ đó tác giả Andrew Wiest thuật lại theo những gì từ Trung tá Đính kể trong
cuốn "Vietnam's Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN".
“…Ông
Phạm Văn Đính cảm thấy vô cùng phẫn uất trước diễn biến tình hình. Quân lực
VNCH đã mất mát quá nhiều nhân lực tài giỏi để đẩy lui VC ra khỏi Quân Đoàn I đến
hai lần, kể như là chiến thắng. Phần đất đẫm máu của Khe Sanh, nơi mà ông đã có
lần lái xe đến bình an, lại một lần nữa rơi vào tay kẻ thù. Trước đây, trên đường
rút lui từ hướng Tây, phần lớn quân đội Mỹ đã ở lại miền Nam Việt Nam, nhưng
bây giờ thật nản lòng làm sao khi sự rút lui đó kể như vĩnh viễn. Làm cách nào
để quân đội VNCH sẽ lấy lại được phần đất đã mất để đẩy lùi Cộng quân từ miền Bắc
thêm một lần nữa? Sự ủng hộ của Mỹ đối với cuộc chiến tranh Việt Nam đang vơi dần
và sự thực về chiến thuật phản ảnh qua giai đoạn mới này của cuộc chiến đang đè
nặng lên tâm khảm của ông Đính, làm ông nhận thức ra rằng trên thực tế, miền
Nam Việt Nam có thể sẽ mất trong cuộc tranh đấu sống chết để chỉ mong tồn tại….”
(… Pham Van Dinh found the developing situation immensely frustrating. The ARVN had lost so many good people in efforts to push the NVA out of I Corps—twice—and had been so near victory. Now the land that had cost so much in blood, where once he could ride in an open jeep all the way to Khe Sanh in peace, was again in the hands of the enemy. In the previous pullback from the west, substantial American forces had remained in South Vietnam, but now the retreat carried a disheartening air of permanence. How was South Vietnam alone to regain its lost territory and push the North Vietnamese out once again? As U.S. support for the war waned, the tactical reality presented by the new phase of the conflict pressed hard on Dinh and caused him to think for the first time that South Vietnam might actually lose its struggle for survival…)
Trong
lời trình bày thêm của ông Đính với tác giả cho thấy sự lo sợ và hoang mang khi
đường tiếp viện bị cắt đứt, đối diện với một lực lượng địch đông hơn rất nhiều
lần về nhân lực cũng như hỏa lực, trong lúc Sư đoàn như đã bỏ rơi ông. Trong
hoàn cảnh bi đát đó, ông quyết định đầu hàng như ông đã nói trong cuộc họp ở
trên.
Mấy ngày sau khi căn cứ Carroll thất thủ, tại
BTL/SĐ3 trong Thành Cổ đã có lời đồn đoán có thể đã có sự hoạt động của binh vận
đối phương tại căn cứ, nhưng tình hình căng thẳng lúc đó ít ai theo dõi, chúng
tôi cũng không biết bên An ninh quân đội có điều tra vụ này không? Tuy nhiên,
khoảng hơn 10 ngày sau khi căn cứ Carroll mất, binh sĩ TQLC bảo vệ Ái Tử đã bắt
được Đại úy Nhơn Trưởng ban 2 Trung đoàn 56 đang tìm cách vào căn cứ. Sau đó giải
giao về BTL/SD3, ông Nhơn được chuyển cho Sở 1 An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng. Khi
SD3 vào dưỡng quân tại Phú Bài hình như đã có tờ trình Tư Lệnh về sự kiện này,
nhưng không biết nội dung như thế nào. Cũng có dư luận cho rằng: Trung tá Đính
bị Trung tá Vĩnh Phong lèo lái dụ dỗ để buông súng vì Trung tá Vĩnh Phong đã được
Cộng quân móc nối từ trước. Đây cũng chỉ là lời phỏng đoán, có lẽ nhiều người biết
trước đó Trung tá Phong không ưa gì người Mỹ, thái độ này cũng đã được hai cố vấn
Trung đoàn "mô tả" trong buổi trưa ngày 2/4/1972 tại Carroll:
“…Đứng ở lối vào căn hầm
chỉ huy là Trung tá Vĩnh Phong - Trung đoàn phó của ông Đính. Camper và Brown
chào, nhưng ông Phong không thèm chào lại. Camper và ông Phong rất ghét nhau,
trong thực tế ông Phong khinh thường tất cả người Mỹ. Mối quan hệ của họ như là
lửa với nước
Camper hỏi ông Phong: "Tôi đang kiếm Trung tá Đính. Ông Đính có ở đó
không?"
Trung tá Phong không trả lời, thái độ khinh thị của mình đối với ông Camper thể
hiện rõ ràng. Cuối cùng ông Phong trả lời: "Ông Đính bận họp". Camper
và Brown liếc nhìn nhau. Hai ông cố vấn Camper và Brown đúng ra phải có mặt tại
buổi họp. Họ đi về phía cửa, nhưng ông Phong chặn đường. "Trung tá không muốn
bị quấy rầy," ông nói. Camper và Brown biết nói thêm chỉ vô ích, nên họ
quay trở lại hầm trú ẩn của họ. Tuy nhiên, vì lịch sự ông quay lại nói với ông
Phong rằng: "Tôi sẽ kiểm tra lại sau…."
(..…Standing
in the covered entrance of the big regimental bunker was Lieutenant Colonel
Vinh Phong, Dinh's executive officer. Camper and Brown saluted, but Phong
ignored them. It was no secret that Camper and Phong hated each other; in fact
Phong despised all Americans. Camper characterized their relationship as being
"like matches and gasoline."
"We're looking for Colonel Dinh. Is he around?" asked Camper.
Lieutenant Colonel Phong did not answer for a second, letting his disdain for
the foreigners show clearly. When he finally spoke. His words were short and
crisp: "The colonel is in a staff meeting." Camper and Brown glanced
at each other. Advisers were supposed to be present at staff meetings. They
moved for the door, but Phong blocked the way. "The colonel does not wish
to be disturbed," he said.
The Americans knew further argument was futile so they turned to go back to
their bunker. In an attempt to remain polite, Camper looked back over his
shoulder as the left and told the arrogant executive officer, "I'll check
back later."…..)
Chúng
tôi có tiếp xúc với một số sĩ quan thân cận và bạn bè Trung tá Đính, không ai
hiểu được ý ông, có điều nhiều người xác nhận trên lập trường quan điểm, ông
chưa bao giờ bộc lộ tư tưởng thân Cộng, bởi ông là một Đảng viên Đảng Đại Việt,
có cuộc sống phóng khoáng, đánh bất cứ trận nào, ông luôn dành chiến thắng. Một
người gần gũi với gia đình ông cho biết: Thời điểm đó vợ ông Đính sinh con thứ
ba được mấy hôm, biết đâu yếu tố tình cảm này là một trong nhiều lý do đưa đến
quyết định của ông?
Ông Nguyễn Kỳ Phong, người điểm sách "Một quân đội bị bỏ quên: Anh hùng và bội phản
trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa" đã có nhận định về trường hợp đầu
hàng của Trung tá Đính như sau:
“…nhìn
lại địa hình và tình hình của mặt trận ở hướng Tây và Tây Bắc Quảng Trị, quân
lệnh của Tướng Giai và Tướng Lãm không phải không có ý nghĩa. Những căn cứ nhỏ
như Núi Ba Hô, Sarge, C2, C3, hay Mai Lộc có thể di tản được vì đó là những căn
cứ nhỏ, không có địa hình thuận lợi để phòng thủ. Nhưng căn cứ Carrol thì hoàn
toàn khác. Ðây là một căn cứ có thể cầm cự một hay là hai trung đoàn địch dễ
dàng…”
“…Người
điểm sách này xin nói trước: trước khi đọc tác phẩm “Vietnam's Forgotten
Army…”, người viết đã có một định kiến về hành động đầu hàng của Trung Tá Ðính:
đó là hành động của một sĩ quan chủ bại, chưa đánh đã chạy. Và sau khi đọc tác
phẩm, người viết vẫn không hoàn toàn đồng ý với lý do đầu hàng của ông Trung
tá: Thông cảm? Có. Chấp nhận? Không!...”
Nhiều người đồng thuận với kết luận nói trên, họ thông cảm với ông trong khoảnh khắc hoang mang giao động, bản năng "Tham sinh úy tử" của con người trỗi dậy, nhưng họ không chấp nhận những gì ông hành xử sau đó. Đã có thời gian ông đến Mỹ, nhưng bạn bè ngày xưa không ai muốn tiếp và độc giả cũng hoàn toàn đồng ý với nhà sử học Andrew Wiest khi gọi ông là kẻ bội phản.
Trong
lúc đó một người vừa là bạn chiến đấu, vừa là thuộc cấp: Thiếu tá Tôn Thất Mãn
Tiểu đoàn trưởng TD1/56 đã phản đối quyết liệt việc đầu hàng của ông Đính,
không chỉ trong buổi họp mà kéo dài về sau này để giữ tròn khí tiết của mình, ta
hãy nghe ông chia sẻ:
“….Đoàn tù và hàng binh đi
bộ 10 ngày đến Quảng Bình, tại đây có xe đưa ra Thanh Hóa và lên tàu đến trại
giam Bất Bạt, Sơn Tây, thời gian này liên tục bị hỏi cung, viết bản tự khai,
kiểm điểm. Đặc biệt là công an bắt tất cả những sĩ quan có đi du học Mỹ phải
tường trình đầy đủ những gì đã lãnh hội được và giao cho ông Đính tổng hợp
trình lên chúng.
Trong khoảng thời gian này, lãnh đạo trại
giam mở đợt vận động tuyên truyền, kêu gọi tất cả sĩ quan đứng lên tự giác từ
bỏ lý lịch căn cước QL/VNCH để trở về với Quân Đội Nhân Dân. Thiếu tá Tôn Thất
Mãn đã khí khái quyết liệt phản đối chiêu bài này. Khi được trực tiếp đặt vấn
đề, anh nói với tên Thiếu tá phản gián Nguyễn Phương: Ngay từ lúc ở căn cứ Tân Lâm, tôi đã chống lại việc đầu hàng của Trung
đoàn trưởng, mặc dầu mọi người đều im lặng, nhưng lúc đó tôi không nghĩ đến sự
an nguy của tính mạng mình và đã chống đối đến cùng. Đời lính thắng bại là
chuyện thường tình, bây giờ tôi sa cơ thất thế bị các ông bắt, hãy xem tôi như
là một tù binh chiến tranh, tôi hoàn toàn chấp nhận vị trí ấy, tôi luôn luôn
trung thành với lý tưởng mà tôi đã phụng thờ: TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM,
đồng thời tôi không phản bội những chiến hữu dưới quyền đã hy sinh…
Sau
hôm ấy, anh bị đưa đi giam riêng, được một thời gian chúng chuyển anh đến Hỏa
Lò Hà Nội nhốt vào xà lim”.